Hiện nay với sự phát triển của y học, đa số các dị tật tim đều có thể được sửa chữa một cách hiệu quả và trả người phụ nữ trở về cuộc sống bình thường. Với nhiều bệnh tim thể nhẹ (chiếm đa số), việc mang thai hầu như không ảnh hưởng nhiều đến người mẹ.
Những biến đổi của tim và mạch máu khi mang thai
Ở những người khỏe mạnh thì hệ thống tim mạch có thể thích ứng được với những sự thay đổi khi có thai, nhưng những sản phụ bị bệnh tim thì thai nghén trở thành gánh nặng và có thể gây ra những biến chứng cho cả mẹ và thai nhi. Nguyên nhân tử vong do các bệnh tim mạch thường gặp là tăng huyết áp (12%) và các bệnh tim khác (20%). Trong quá trình mang thai, cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi về giải phẫu, huyết học, nội tiết, tuần hoàn... làm tăng dần gánh nặng lên hệ tuần hoàn.
Các biến đổi đó bao gồm:
- Tăng thể tích máu: trong 3 tháng đầu tiên của thai kỳ, thể tích máu tuần hoàn sẽ tăng lên 40 - 50% và duy trì ở mức này trong suốt quá trình mang thai.
- Tăng cung lượng tim: cung lượng tim sẽ tăng lên 30 - 40%, tương ứng với mức tăng thể tích máu.
- Tăng nhịp tim: thông thường, khi mang thai, nhịp tim sẽ tăng lên 10 - 15 nhịp/phút.
- Hạ huyết áp: ở một số người, huyết áp có thể giảm khoảng 10 mmHg trong quá trình mang thai. Phần lớn các trường hợp hạ huyết áp không gây triệu chứng và không cần điều trị. Bác sĩ sẽ theo dõi số đo huyết áp của sản phụ vào những lần khám thai định kỳ.
Những biến đổi trên là bình thường trong quá trình mang thai, đảm bảo thai nhi được cung cấp đầy đủ oxy và chất dinh dưỡng. Chúng có thể gây một số triệu chứng như mệt mỏi (cảm thấy kiệt sức), khó thở, váng đầu.
Phụ nữ có bệnh tim cần làm gì khi dự định mang thai?
Phụ nữ có bệnh tim cần lưu ý đặc biệt trước và trong khi mang thai, một số bệnh tim mạch có thể làm tăng nguy cơ biến chứng của sản phụ. Ngoài ra, có những người mắc bệnh tim từ trước mà không biết, chỉ được phát hiện khi đã mang thai. Việc tham khảo ý kiến BS khi muốn có thai là cần thiết. BS giúp đánh giá và giải thích tình trạng bệnh, mức độ an toàn khi mang thai, nguy cơ đối với mẹ và thai nhi, có cần điều trị bệnh ổn trước khi có thai không?
Khi nào cần đi khám bác sĩ tim mạch nếu muốn mang thai?
Nếu bạn có sẵn bệnh lý tim mạch, đặc biệt những bệnh dưới đây thì cần hết sức thận trọng và có sự phối hợp chặt chẽ với thầy thuốc:
- Có bệnh tăng huyết áp, tăng mỡ máu hay đái tháo đường.
- Tiền sử được chẩn đoán bệnh lý tim mạch, gồm bệnh động mạch chủ, rối loạn nhịp tim, có tiếng thổi ở tim, bệnh cơ tim, suy tim, hội chứng Marfan, thấp tim.
- Tiền sử có biến cố tim mạch (như đột quỵ hay tai biến mạch não thoáng qua).
- Giảm khả năng gắng sức.
- Hẹp khít van hai lá, van động mạch chủ, hoặc đường ra động mạch chủ, xác định trên siêu âm tim.
Những trường hợp nào chưa hoặc không nên mang thai?
- Các bệnh tim mạch gây suy tim nặng mà chưa được điều trị tốt hoặc không điều trị được.
- Các bệnh tim bẩm sinh tím chưa được mổ hoặc đã gây tăng áp lực động mạch phổi nặng.
- Các bệnh van tim (hẹp hoặc hở van nặng) mà chưa được điều trị triệt để (nong van, phẫu thuật...).
- Các rối loạn nhịp trầm trọng hoặc tăng huyết áp nặng chưa được khống chế tốt.
- Các bệnh động mạch chủ (phình, giãn...) chưa được sửa chữa.
Đang mang van cơ học có mang thai được không?
Mang van cơ học, phải uống Sintrom (loại thuốc kháng đông máu). Có thể gây biến chứng nguy hiểm. Sintrom có thể gây dị dạng trong 3 tháng đầu, xuất huyết trong 3 tháng cuối. Khi dùng Sintrom phải có kế hoạch ngừa thai, có thể dùng thêm thuốc ngừa thai. Nếu muốn có thai phải đến gặp bác sĩ để được đổi thuốc kháng đông khác ngoài Sintrom.
Trong thai kỳ, tuyệt đối tuân theo chế độ điều trị kháng đông của bác sĩ tim mạch. Thai phụ phải khám thai định kỳ để bác sĩ sản khoa theo dõi sức khỏe của thai nhi và mẹ, siêu âm phát hiện có hay không dị tật thai nhi.
Chăm sóc khi mang thai
- Việc thăm khám trong quá trình mang thai nên định kỳ hàng tháng đối với các bệnh nhân có bệnh nhẹ và 2 tuần với các bệnh nhân có bệnh mức độ trung bình đến nặng cho đến tuần thứ 28 - 30, sau đó thăm khám hàng tuần cho đến khi sinh.
- Nghỉ ngơi, tránh các hoạt động thể lực nặng.
- Theo dõi cân nặng: tăng cân quá nhiều là một gánh nặng cho tim.
- Ngừa huyết khối: khi ngồi, tránh thói quen bắt chéo chân, nên thay đổi tư thế thường xuyên, luân phiên co duỗi 2 chân, thỉnh thoảng đi lại để máu dễ hồi lưu về tim. Mang vớ y khoa bó chân cũng là một biện pháp tốt.
- Giữ ấm: thời tiết quá nóng hay độ ẩm quá cao làm giãn mạch máu khiến tim phải tăng cung cấp máu.
- Kiềm chế các cảm xúc như lo lắng, xúc động...
- Không uống rượu, không hút thuốc lá và không dùng thực phẩm có tính kích thích.
- Việc sinh con với người mẹ mắc bệnh tim mạch là sự kiện có nguy cơ cao nên cần sinh con tại một trung tâm y khoa đủ điều kiện theo dõi và xử trí trong quá trình chuyển dạ.
- Kháng sinh dự phòng đã được khuyến cáo cho các bệnh nhân bệnh tim được phẫu thuật hay làm các thủ thuật chảy máu. Các bệnh nhân bị bệnh tim có tỷ lệ bị nhiễm khuẩn huyết cao hơn khi chuyển dạ và sinh.
Vi khuẩn được phát hiện thấy trong máu ở 14% phụ nữ sau khi chuyển dạ hay vỡ ối và rất nhiều vi khuẩn phân lập được có khả năng gây viêm nội tâm mạc. Khi bị biến chứng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, tỷ lệ tử vong của mẹ khoảng 22% và thai nhi khoảng 15%.
Vì bệnh nhân bệnh tim có nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn máu, thậm chí cả trong quá trình sinh nở không biến chứng, hậu quả nặng nề của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và giá thành điều trị tương đối thấp nên việc sử dụng kháng sinh dự phòng khi chuyển dạ được chỉ định cho tất cả các bệnh nhân có bệnh tim.
0 nhận xét